Hóa học Thực phẩm đóng hộp tự sôi

Nguồn nhiệt cho lon thiếc tự sôi thời kỳ đầu là một phản ứng tỏa nhiệt mà người dùng khởi tạo bằng cách ấn vào đáy hộp. Lon được sản xuất như một vật đựng có ba ngăn. Một lon chứa nước giải khát bao quanh thùng chứa chất làm nóng được ngăn cách với thùng chứa nước bằng một màng mỏng có thể vỡ được. Khi người dùng ấn vào đáy lon, một que chọc thủng màng, cho phép nước và chất làm nóng hòa vào nhau. Phản ứng tạo thành giải phóng nhiệt và do đó làm ấm đồ uống xung quanh.[1]

Tác nhân làm nóng và phản ứng chịu trách nhiệm thay đổi tùy theo sản phẩm. Canxi oxit được sử dụng trong phản ứng sau:

CaO(s)+ H2O(l) → Ca(OH)2(s)

Đồng sunphatkẽm dạng bột cũng có thể được sử dụng, nhưng quy trình này kém hiệu quả hơn:

CuSO4(s) + Zn(s) → ZnSO4(s) + Cu(s)

Canxi clorua khan cũng thường được sử dụng. Trong trường hợp này, không có phản ứng hóa học nào xảy ra, thay vào đó là nhiệt dung dịch được tạo ra.

Nguồn nhiệt thương mại để đóng gói thực phẩm tự làm nóng sử dụng phản ứng tỏa nhiệt (giải phóng nhiệt), phản ứng này có một số công thức phổ biến. Bao gồm các:

  • Vôi sống hay còn gọi là oxit canxi và nước. Vôi sống, rẻ tiền và sẵn có, thường được FDA công nhận là an toàn.[2]
  • Kim loại magiê dạng bột mịn được hợp kim với một lượng nhỏ sắtmuối ăn, hoạt động bằng cách thêm nước, như MRE (Meal ready to eat) flameless ration heater, lương khô của quân đội Mỹ.

Một số công thức mới hơn sử dụng phản ứng giống như Thermite giữa bột kim loại dễ phản ứng hơn như nhôm hoặc magiê với một oxit kim loại ít phản ứng hơn như oxit sắt hoặc silic đioxit.[3]

  • Khẩu phẩn lương khô tự sôi cho tối đa 18 binh sĩ
  • Gói tạo nhiệt không dùng lửa trong hộp chứa oxit canxi, natri bicacbonat và bột nhôm. Những gì nên được đặt trong đĩa là gạo sống, cũng như lớp trên bề mặt